Ông T V N đã chia sẻ với Luật sư Hoàng Văn Hà – Công ty Luật TNHH ARC Hà Nội như sau:
Ông N V H và ông T V N có hai thửa đất liền kề tại xã Phú Lâm, huyện Y, tỉnh Z. Cả hai đều đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 2010. Năm 2024, ông H xây một căn nhà cấp 4 để cho con trai ra ở riêng. Trong quá trình xây dựng, do đo đạc và cắm mốc sai, ông H đã xây lấn sang phần đất của ông Nam khoảng 50 m². Khi phát hiện sự việc, ông N yêu cầu ông H tháo dỡ toàn bộ công trình lấn chiếm, trả lại đất nguyên trạng. Ông H thì cho rằng mình không cố ý, đã đầu tư hơn 700 triệu đồng vào căn nhà, nên đề nghị ông N nhận bồi thường bằng tiền hoặc chuyển nhượng phần đất đó cho mình.
Dựa vào các thông tin ông T đã cung cấp, Luật sư Hoàng Văn Hà – Công ty Luật ARC Hà Nội nêu quan điểm như sau:
- Về quyền sử dụng đất của ông T.V.N
Ông T.V.N là người sử dụng hợp pháp thửa đất được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận từ năm 2010. Theo Điều 4 và Điều 166 Luật Đất đai 2024, quyền sử dụng đất là quyền tài sản được pháp luật bảo vệ. Không ai được xâm phạm trái pháp luật đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông N. Vì vậy, bất kỳ hành vi nào làm thay đổi ranh giới, chiếm dụng diện tích đất của ông N đều là xâm phạm nghiêm trọng quyền sử dụng đất đã được Nhà nước công nhận.
- Hành vi lấn chiếm đất của ông N.V.H
Trong quá trình xây dựng nhà năm 2024, ông H đã lấn sang phần đất của ông N khoảng 50 m². Hành vi này thuộc trường hợp “lấn, chiếm đất” bị nghiêm cấm theo khoản 1 Điều 12 Luật Đất đai 2024. Đồng thời, Điều 175 Bộ luật Dân sự 2015 cũng quy định rõ các chủ sử dụng đất liền kề phải tôn trọng mốc giới và ranh giới. Việc đo đạc, cắm mốc sai là lỗi của ông H, và dù ông H có cho rằng không cố ý thì vẫn phải chịu trách nhiệm khắc phục hậu quả.
- Về yêu cầu tháo dỡ và trả lại đất nguyên trạng
Theo Điều 166 và Điều 218 Luật Đất đai 2024, người sử dụng đất có quyền yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm, buộc khôi phục tình trạng đất ban đầu khi bị xâm phạm. Do đó, yêu cầu của ông N về việc tháo dỡ công trình, trả lại đất nguyên trạng là hoàn toàn hợp pháp, phù hợp với các quy định hiện hành. Đây là biện pháp bảo vệ tối đa quyền lợi chính đáng của người có đất bị lấn chiếm.
- Không có căn cứ chấp nhận bồi thường bằng tiền hoặc chuyển nhượng đất
Ông H nói rằng đã bỏ ra 700 triệu đồng để xây dựng công trình và đề nghị bồi thường hoặc chuyển nhượng phần đất bị lấn. Tuy nhiên, Luật Đất đai 2024 không hề có quy định buộc người bị lấn chiếm đất phải nhận tiền bồi thường hay chuyển nhượng bắt buộc. Chi phí xây dựng mà ông H bỏ ra là rủi ro phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật, nên ông H phải tự gánh chịu. Nếu chấp nhận yêu cầu này sẽ tạo tiền lệ xấu cho việc lấn chiếm đất rồi hợp thức hóa bằng tiền.
- Phương án giải quyết
Trong trường hợp này, giải pháp phù hợp nhất là buộc ông N.V.H phải tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng trái phép trên diện tích 50 m² đã lấn chiếm, đồng thời trả lại đất nguyên trạng cho ông T.V.N. Việc khôi phục ranh giới và mốc giới thửa đất phải được thực hiện đúng theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cấp. Ngoài ra, hành vi lấn chiếm đất của ông H có thể bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định 91/2019/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực đất đai, nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
Về trách nhiệm bồi thường, ông T.V.N là người bị xâm phạm quyền sử dụng đất nên nếu chứng minh được thiệt hại thực tế như mất quyền khai thác, sử dụng, hoặc giá trị đất bị ảnh hưởng thì có quyền yêu cầu ông H bồi thường theo Điều 589 Bộ luật Dân sự 2015. Ngược lại, số tiền 700 triệu đồng mà ông H đã bỏ ra để xây dựng trên phần đất lấn chiếm không được pháp luật bảo vệ, vì đây là hậu quả của hành vi vi phạm. Do đó, ông H phải tự gánh chịu rủi ro này và không có cơ sở để yêu cầu ông N bồi thường hoặc buộc chuyển nhượng đất trái ý chí.
Nếu anh/chị cần hỗ trợ pháp lý trong quá trình thực hiện, Công ty Luật ARC Hà Nội sẵn sàng tư vấn và hỗ trợ anh.
Giải đáp thắc mắc, tư vấn pháp luật miễn phí: 0968.007.001