Chị Lê Thị Hương ở Nam Định hỏi:
Năm 1998, bố mẹ tôi để lại một thửa đất ở diện tích 1.200 m² cho 3 người con (tôi, anh Long và chị Nga) theo thỏa thuận gia đình (không có di chúc bằng văn bản, không có sổ đỏ lúc đó). Từ năm 2005 đến 2010, tất cả anh em vẫn quản lý, sử dụng chung thửa đất. Năm 2012, anh Long tự ý làm thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nộp hồ sơ tại Văn phòng đăng ký đất đai quyền sử dụng đất – giấy tờ trong hồ sơ thể hiện chữ ký của các em giống chữ ký thật nhưng chúng tôi không hề ký tờ ủy quyền nào cho anh Long. Năm 2019, anh Long chuyển nhượng một phần diện tích 300 m² cho người thứ ba (ông Bình) và trên sổ đó đã ghi việc chuyển nhượng. Đến cuối 2024 tôi mới biết việc anh Long đã đăng ký và chuyển nhượng. Vậy tôi muốn hỏi
- Quyền lợi pháp lý của tôi đối với thửa đất này còn không?
- Tôi có thể yêu cầu hủy Giấy chứng nhận đã cấp cho anh Long và thu hồi phần đất đã chuyển nhượng cho người thứ ba không?
Dựa vào dữ liệu do chị cung cấp: Luật sư Hoàng Văn Hà – Công ty Luật ARC Hà Nội nêu quan điểm đối với trường hợp của chị Lê Thị Hương như sau:
- Về quyền lợi pháp lý đối với thửa đất 1.200m2
– Năm 1998, bố mẹ chị Hương Hương mất và để lại thửa đất 1.200 m² cho 3 anh chị em theo thỏa thuận gia đình. Việc không có di chúc bằng văn bản, không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (số đỏ) tại thời điểm đó không làm mất quyền thừa kế hợp pháp của các đồng thừa kế.
– Căn cứ Điều 609, 611 và 650 Bộ luật Dân sự 2015, chị Hương, anh Long và chị Nga đều là người thừa kế theo pháp luật hàng thừa kế thứ nhất và đương nhiên có quyền ngang nhau đối với di sản là thửa đất nơi trên.
Do vậy, quyền lợi pháp lý của chị Hương đối với Thửa đất này vẫn còn. Phần quyền sử dụng đất tương ứng với suất thừa kế của chị vẫn được pháp luật bảo vệ.
- Về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2012 của anh Long
Điều 152 Luật Đất đai 2024 quy định: Cơ quan nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp cấp sai đối tượng, cấp sai diện tích, hoặc cấp không đúng thẩm quyền, không đúng trình tự, thủ tục.
Người sử dụng đất, người có quyền lợi liên quan có quyền yêu cầu cơ quan quản lý đất đai hoặc khởi kiện tại Tòa án để hủy GCNQSDĐ đã cấp sai.
Hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ của anh Long đã có dấu hiệu giả mạo chữ ký và không có sự đồng ý của các đồng thừa kế. Vì vậy, việc cấp GCNQSDĐ này của anh Long là trái pháp luật, thuộc trường hợp phải bị thu hồi, hủy bỏ.
3.Về phần đất 300 m² anh Long đã chuyển nhượng cho ông Bình
– Theo Điều 152 Luật Đất đai 2024, người được cấp GCN không hợp pháp thì giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất có thể bị tòa án tuyên vô hiệu.
– Nếu ông Bình ngay tình không hề biết phần đất đó được cấp GCNQSD đất trái pháp luật (Điều 133 Bộ luật Dân sự 2015), thì việc bảo vệ quyền lợi của ông sẽ được xem xét, nhưng giao dịch gốc vẫn là không hợp pháp.
Trong trường hợp này chị Hương có thể:
- Yêu cầu Tòa án tuyên hủy GCNQSDĐ đã cấp sai cho anh Long
- Yêu cầu Tòa án xem xét lại hợp đồng chuyển nhượng 300m2 đất giữa anh Long và ông Bình.
- Đề nghị Tòa án chia lại quyền sử dụng đất di sản mà bố mẹ để lại theo đúng quy định của pháp cho 3 anh em.
Để hiểu rõ hơn về quy trình, thủ tục và nguyên tắc giải quyết tranh chấp về thừa kế và yêu cầu hủy GCNQSDĐ, bạn có thể đến Văn phòng Công ty Luật ARC Hà Nội để trực tiếp trao đổi với Luật Sư.
Giải đáp thắc mắc, tư vấn pháp luật miễn phí: 0968.007.001
Khánh Huyền